HPV (Virus u nhú ở người)
Hơn 30 chủng vi rút u nhú ở người (HPV) có thể ảnh hưởng đến bộ phận sinh dục. Trong số đó, khoảng 13 trường hợp được coi là “nguy cơ cao” vì chúng có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung. Tìm hiểu cách phòng ngừa và điều trị HPV.
Virus u nhú ở người (HPV) là gì?
HPV là viết tắt của virus gây u nhú ở người. Nó là một loại virus rất phổ biến. Có khoảng 100 loại HPV ảnh hưởng đến các bộ phận khác nhau của cơ thể. Khoảng 30 loại HPV có thể ảnh hưởng đến bộ phận sinh dục – bao gồm âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, dương vật và bìu – cũng như trực tràng và hậu môn. Trong số đó, có khoảng 14 loại được coi là có “nguy cơ cao” dẫn đến ung thư cổ tử cung.
HPV phổ biến như thế nào?
HPV ảnh hưởng đến bộ phận sinh dục là rất phổ biến. Khoảng 79 triệu người Mỹ hiện đang bị nhiễm HPV, với khoảng 14 triệu người bị nhiễm mới mỗi năm. Hầu hết đàn ông và phụ nữ – khoảng 80% những người có quan hệ tình dục – đều bị nhiễm HPV vào một thời điểm nào đó trong đời, nhưng hầu hết mọi người không bao giờ biết họ có vi rút.
Nam giới có thể bị nhiễm HPV?
Đúng. Ở nam giới, mụn cóc sinh dục thường xuất hiện trên dương vật, trên bìu, trong hoặc xung quanh hậu môn, hoặc trên bẹn. Đối với nam giới, nhiễm HPV – bao gồm cả những loại có thể gây ra thay đổi tế bào – không gây ra triệu chứng, vì vậy việc chẩn đoán HPV ở nam giới rất khó khăn. Việc chẩn đoán HPV ở nam giới được thực hiện khi thấy các mụn cóc sinh dục bên ngoài.
Vì không có phương pháp điều trị nào đối với HPV mà không có triệu chứng, hầu hết nam giới bị nhiễm trùng không được điều trị. Đôi khi, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể nhìn thấy những mụn cóc nhỏ mà có thể không được chú ý. Nói chung, nhiễm HPV không khiến một người đàn ông có nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe cao hơn nhiều. Tuy nhiên, việc phòng ngừa HPV vẫn quan trọng đối với nam giới, vì vi rút này có liên quan đến các bệnh ung thư không phổ biến như dương vật, hậu môn và đầu và cổ.
HPV liên quan đến ung thư cổ tử cung như thế nào?
Một số chủng HPV có thể gây ra những thay đổi trong các tế bào của cổ tử cung, một tình trạng được gọi là chứng loạn sản cổ tử cung. Nếu nó không được điều trị, chứng loạn sản có thể tiến tới ung thư cổ tử cung . HPV hầu như luôn luôn là nguyên nhân gây ra ung thư cổ tử cung. Tuy nhiên, chỉ vì một phụ nữ bị nhiễm HPV hoặc loạn sản cổ tử cung không nhất thiết có nghĩa là cô ấy sẽ bị ung thư cổ tử cung.
Xét nghiệm Pap thường xuyên là cách bảo vệ tốt nhất chống lại ung thư cổ tử cung. Xét nghiệm phát hiện những thay đổi tiền ung thư và ung thư cổ tử cung. Ung thư cổ tử cung hầu như luôn có thể phòng ngừa hoặc chữa khỏi nếu những thay đổi tiền ung thư được phát hiện và điều trị sớm, trước khi ung thư phát triển.
Trước 30 tuổi, nhiễm HPV thường thoáng qua (tự khỏi). Đến 30 tuổi, việc phát hiện HPV trong quá trình sàng lọc Pap có thể giúp xác định tần suất cần được sàng lọc. Sự vắng mặt của các loại HPV nguy cơ cao thường có nghĩa là một phụ nữ có nguy cơ thấp phát triển những thay đổi ở cổ tử cung liên quan đến nguy cơ ung thư cổ tử cung. Trong trường hợp này, khoảng thời gian giữa các lần sàng lọc xét nghiệm Pap thường là năm năm đối với hầu hết phụ nữ.
Nếu một phụ nữ xét nghiệm dương tính với các loại HPV nguy cơ cao, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của cô ấy sẽ thực hiện xét nghiệm Pap thường xuyên hơn để kiểm tra bất kỳ thay đổi tế bào nào có thể là tiền ung thư hoặc cần được điều trị.
Ung thư cổ tử cung là gì?
Ung thư cổ tử cung là tình trạng các tế bào ở niêm mạc cổ tử cung – phần cuối hẹp, bên ngoài của tử cung – thay đổi và phát triển rất nhanh, tạo ra một nhóm tế bào gọi là khối u. Tình trạng này thường phát triển theo thời gian. Nó có thể ảnh hưởng đến phụ nữ ở mọi lứa tuổi, nhưng nó phổ biến nhất ở phụ nữ ở độ tuổi ngoài 40. Một loại vi rút, được gọi là HPV, là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung.
Làm thế nào để bạn nhiễm vi rút u nhú ở người (HPV)?
HPV sinh dục lây lan qua tiếp xúc (chạm) vào da của người bị nhiễm HPV. Tiếp xúc bao gồm quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn và miệng. Một số loại HPV gây ra mụn cóc sinh dục , là những cục cứng, thô, mọc trên da. Bất kỳ ai có quan hệ tình dục đều có thể bị nhiễm HPV và mụn cóc sinh dục.
Ở phụ nữ, mụn cóc sinh dục thường xuất hiện ở những vùng sau trên cơ thể:
- Trên âm hộ (bộ phận sinh dục ngoài của phụ nữ)
- Trong hoặc xung quanh âm đạo
- Trong hoặc xung quanh hậu môn
- Trên bẹn (nơi vùng sinh dục gặp đùi trong)
- Trên cổ tử cung
Các triệu chứng của HPV là gì?
Trong nhiều trường hợp, HPV không gây ra triệu chứng. Khi chúng xảy ra, triệu chứng phổ biến nhất là mụn cóc ở vùng sinh dục. Các dấu hiệu nhiễm trùng có thể xuất hiện vài tuần, vài tháng, thậm chí vài năm sau khi người đó bị nhiễm vi rút.
Làm thế nào để chẩn đoán virus u nhú ở người (HPV)?
Không có xét nghiệm máu để tìm HPV, nhưng một số xét nghiệm có thể giúp nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn chẩn đoán nhiễm trùng:
- Xét nghiệm Pap: Trong quá trình xét nghiệm này, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ loại bỏ một mẫu tế bào từ cổ tử cung. Sau đó, các tế bào được kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm bất kỳ thay đổi nào trong tế bào, ngay cả khi bệnh nhân không bị mụn cóc sinh dục.
- Soi cổ tử cung : Đối với xét nghiệm này, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sử dụng một dụng cụ – được gọi là máy soi cổ tử cung – chiếu ánh sáng và mở rộng tầm nhìn của cổ tử cung. Một dung dịch giấm được đặt trên cổ tử cung. Dung dịch này biến các tế bào bất thường bị nhiễm HPV thành màu trắng để có thể nhìn thấy chúng dễ dàng hơn.
- Xét nghiệm DNA HPV: Xét nghiệm này tìm kiếm trực tiếp vật liệu di truyền (DNA) của HPV trong một mẫu tế bào. Xét nghiệm có thể phát hiện loại HPV có liên quan đến ung thư cổ tử cung. Mẫu được sử dụng cho xét nghiệm này thường được thu thập cùng lúc với xét nghiệm Pap.
Điều trị vi rút u nhú ở người (HPV) như thế nào?
Không có cách chữa trị cho chính vi rút này, nhưng nhiều trường hợp nhiễm HPV sẽ tự biến mất. Trên thực tế, khoảng 70 đến 90% các trường hợp nhiễm HPV được hệ thống miễn dịch loại bỏ khỏi cơ thể.
Khi cần điều trị, mục đích là làm giảm các triệu chứng bằng cách loại bỏ bất kỳ mụn cóc nào có thể nhìn thấy và các tế bào bất thường trong cổ tử cung. Điều trị có thể bao gồm:
- Phẫu thuật lạnh : Làm đông lạnh mụn cóc bằng nitơ lỏng.
- Quy trình cắt bỏ phẫu thuật điện vòng (LEEP) : Sử dụng một vòng dây đặc biệt để loại bỏ các tế bào bất thường.
- Đốt điện: Đốt mụn cóc bằng dòng điện.
- Liệu pháp laser: Sử dụng ánh sáng cường độ cao để tiêu diệt mụn cóc và bất kỳ tế bào bất thường nào.
- Thuốc bôi: Bôi kem thuốc trực tiếp lên mụn cóc. (Không sử dụng các phương pháp điều trị mụn cóc không kê đơn trên vùng sinh dục.)
Trong một số trường hợp, không cần điều trị. Tuy nhiên, bác sĩ sẽ theo dõi chặt chẽ mọi thay đổi của tế bào trong các cuộc hẹn khám định kỳ.
Chỉ một số ít phụ nữ bị nhiễm HPV sẽ xuất hiện những biến đổi tế bào cần được điều trị.
Có thể ngăn ngừa vi rút u nhú ở người (HPV) không?
Sử dụng bao cao su đúng cách mỗi khi quan hệ tình dục có thể giúp giảm nguy cơ nhiễm HPV. Tuy nhiên, bạn nên lưu ý rằng bao cao su không bao phủ toàn bộ da bộ phận sinh dục, vì vậy chúng không có hiệu quả 100% trong việc bảo vệ chống lại sự lây lan của HPV. Người bị mụn cóc sinh dục không nên quan hệ tình dục cho đến khi mụn cóc được loại bỏ. Điều này có thể giúp giảm nguy cơ lây lan HPV.
Dưới đây là một số cách khác để giảm nguy cơ nhiễm HPV:
- Phụ nữ nên xét nghiệm Pap thường xuyên để tìm những thay đổi bất thường ở cổ tử cung có thể là tiền ung thư.
- Nam và nữ nên dừng quan hệ tình dục ngay khi biết hoặc cho rằng mình mắc bệnh sùi mào gà và đi điều trị ngay.
- Chủng ngừa bằng một trong ba loại vắc-xin HPV hiện có. Gardasil® và Gardasil9® bảo vệ chống lại sự phát triển của ung thư cổ tử cung và mụn cóc sinh dục. Chúng được chấp thuận cho trẻ em gái và phụ nữ từ 9 đến 26 tuổi, cũng như trẻ em trai và nam giới từ 9 đến 26 tuổi để bảo vệ chống lại mụn cóc sinh dục. Vắc xin thứ ba, được gọi là Cervarix®, chỉ được chấp thuận cho phụ nữ để bảo vệ chống lại ung thư cổ tử cung (không bảo vệ chống lại một số chủng HPV gây ra mụn cóc).
Tốt nhất là bạn nên chủng ngừa trước khi bắt đầu sinh hoạt tình dục. Thuốc chủng này bao gồm một loạt ba mũi, với mũi thứ hai đến sau mũi đầu tiên hai tháng và mũi thứ ba đến sau mũi đầu tiên sáu tháng. Nếu bạn đã nhiễm HPV, vắc-xin không điều trị hoặc chữa khỏi, nhưng vẫn có thể giúp bảo vệ chống lại các loại nhiễm trùng HPV khác.